Nhà tiên phong nghiên cứu vaccine

Summer Nguyen nguồn bình luận 999
A- A A+
Hilleman là tác giả của vaccine quai bị và đóng góp quan trọng trong sự phát triển của nhiều loại vaccine khác.
Nhà tiên phong nghiên cứu vaccine
Jeryl Lynn Hilleman khi được tiêm vaccine do bố sáng chế vào năm 1966. Ảnh: NYTimes.

1h sáng ngày 21/3/1963, nhà khoa học Maurice R. Hilleman đang say giấc trong ngôi nhà ở ngoại ô Lafayette Hill, Philadelphia (Mỹ). Cô bé 5 tuổi Jeryl Lynn bước đến và lay bố dậy vì cảm thấy đau họng. Tiến sĩ Hilleman sờ vào một bên má và phần dưới hàm của con gái, phát hiện dấu vết sưng phù đặc trưng của bệnh quai bị. Thời điểm đó, cách duy nhất bất cứ ai có thể làm cũng như người bố này là đặt cô bé trở về giường.

Quai bị là căn bệnh không dễ chịu với hầu hết trẻ em bởi các chứng sưng đau và khó nuốt nước bọt. Nhưng trong vai trò một nhà khoa học, Hilleman biết đôi khi nó có thể còn khiến người mắc phải bị điếc hoặc khiếm khuyết vĩnh viễn.

Những lo lắng cuộn trào trong suy nghĩ và người bố không thể ngồi yên. Hilleman ngay lập tức mặc quần áo và lái xe trong 20 phút đến phòng thí nghiệm tìm thiết bị lấy mẫu bệnh phẩm. Trở về nhà, ông đánh thức con gái, dùng thiết bị ngoáy họng và nhúng mẫu vật vào nước dùng dinh dưỡng. Ông tiếp tục quay lại phòng thí nghiệm để cất tất cả những gì thu được vào tủ đông.

Maurice Hilleman có thể không phải là cái tên được nhiều người biết đến. Ít ai biết 95% trẻ em Mỹ và hàng triệu trẻ em toàn cầu ngày nay đều được tiêm vaccine MMR phòng bệnh phối hợp sởi, rubella và quai bị. Loại vaccine này bắt nguồn từ chủng quai bị mà Maurice Hilleman đã lấy của con gái Jeryl Lynn cách đây hơn 50 năm.

Tuy nhiên, đó không phải là thành tựu duy nhất trong cuộc đời nhà khoa học người Mỹ. Khi ông qua đời vào năm 2005, giới nghiên cứu thừa nhận Hilleman đã cứu nhiều mạng sống hơn bất cứ nhà khoa học nào trong thế kỷ 20. Trong suốt sự nghiệp, ông đã phát minh hoặc cải tiến đáng kể trên 25 loại vaccine, trong đó 9 trên 14 loại hiện nay được khuyên dùng thường xuyên cho trẻ em.

"Chỉ có một người làm điều tuyệt vời đó. Chính là Maurice Hilleman", tiến sĩ Anthony S. Fauci - người bạn lâu năm của nhà sáng chế vaccine quai bị cho biết.

Trái với hình dung, thuở nhỏ, Hilleman lại không lựa chọn sự nghiệp nghiên cứu làm giấc mơ. Thời trẻ, khi còn ở Montana, ông có mong muốn trở thành quản lý cửa hàng J. C. Penney. Ý định chỉ thay đổi khi chàng trai nhận ra mình không phù hợp trong ngành bán lẻ.

Sau khi lấy bằng tiến sĩ ngành vi sinh vật học tại Đại học Chicago, Hilleman dành phần lớn sự nghiệp tại công ty dược. Mọi người đều công nhận tài năng của ông trong các quá trình khám phá và hoàn thiện vaccine mà ông theo đuổi. Tiến sĩ Anthony S. Fauci đánh giá Hilleman là sự kết hợp của "kiến thức khoa học tuyệt vời" và "tính thực tế đáng kinh ngạc".

Theo tiến sĩ, nhà nghiên cứu Paul A. Offit, vaccine là công cụ giúp hệ thống miễn dịch kháng lại bệnh mà không gây các triệu chứng thực tế. Tác giả quyển "Vaccinated" viết về tiểu sử của tiến sĩ Hilleman phát hành năm 2007 cho rằng việc sáng tạo vaccine mang tính nghệ thuật hơn là chỉ nhìn đơn thuần ở góc độ khoa học. Bởi không có một công thức chung nào.

Việc thường thấy trong quá trình phát triển vaccine là cô lập một sinh vật gây bệnh và tìm cách giữ nó sống sót trong phòng thí nghiệm. Tiếp đến là làm suy yếu hoặc khiến vi sinh vật suy yếu bằng cách cho đi qua một loạt tế bào mà điển hình là từ phôi gà cho đến khi nó không còn có thể sản xuất chủng bệnh ở người nhưng vẫn tạo ra phản ứng miễn dịch. Từ đó sẽ bắt đầu với các bước tiếp theo. Điều này đặc biệt quan trọng với tiến sĩ Hilleman - người luôn bị ám ảnh với tính an toàn và luôn cố gắng loại bỏ các tác dụng phụ không mong muốn trong quá trình phát triển vaccine.

Mùa xuân năm 1963, Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) cấp phép cho vaccine sởi. Hầu hết quá trình nghiên cứu vaccine ban đầu diễn ra tại phòng thí nghiệm của John F. Enders tại bệnh viện Nhi đồng Boston. Tuy nhiên, khi tiến sĩ Hilleman bắt tay vào nghiên cứu thì loại vaccine trước đó vẫn còn gây phát ban và sốt.

Trước áp lực của các cơ quan y tế công cộng trong việc ngăn chặn căn bệnh lấy đi sinh mạng 500 trẻ em Mỹ hàng năm, Hilleman và tiến sĩ Joseph Stokes đã nghĩ ra một cách giảm thiểu tác dụng phụ của vaccine. Họ tiêm globulin miễn dịch vào một cánh tay và vaccine sởi vào cánh tay còn lại của trẻ. Đây cũng là khởi nguồn cho sự kết thúc bệnh sởi tại Mỹ. Trong bốn năm tiếp theo, Hilleman tiếp tục cải tiến vaccine và cuối cùng cho ra chủng Moraten an toàn hơn nhiều được sử dụng cho đến ngày nay.

Một dấu mốc khác trong quá trình phát triển vaccine MMR diễn ra vào mùa xuân năm 1963. Khi đó, đại dịch rubella bùng phát tại châu Âu và nhanh chóng lan rộng khắp toàn cầu. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC), tác động nguy hại của virus đối với ba tháng đầu của thai kỳ đã dẫn đến cái chết với 11.000 trẻ sơ sinh. Thêm vào đó, rubella cũng khiến 20.000 trẻ em bị các dị tật bẩm sinh như điếc, bệnh tim hay đục thủy tinh thể.

Khi dịch bệnh kết thúc vào năm 1965, Hilleman đã thử nghiệm vaccine của mình. Tuy nhiên, sau đó ông đồng ý làm việc với một loại vaccine được phát triển bởi các cơ quan quản lý liên bang. Loại vaccine này hoàn thành vào năm 1969, được FDA phê duyệt và giúp ngăn chặn dịch rubella sau đó. Đến năm 1971, Hilleman kết hợp vaccine phòng sởi, quai bị và rubella thành vaccine kết hợp MMR - giúp thay thế sáu mũi tiêm chỉ với hai mũi.

Đến năm 1978, khi nhận thấy có một loại vaccine rubella khác tốt hơn của mình, Hilleman đã hỏi xin nhà phát triển để ứng dụng vào vaccine MMR. Tiến sĩ Stanley Plotkin khi ấy đang làm việc tại viện Wistar ở Philadelphia đã không thể nói nên lời khi nghe lời đề nghị. Theo ông, đó là một lựa chọn khá đắt về tài chính với Merck và là lựa chọn đầy tổn thương với một nhà phát triển vaccine như Hilleman.

Trong một bài phỏng vấn, tiến sĩ Plotkin từng nói quyết định ngày đó không có nghĩa Hilleman không có lòng kiêu hãnh của một nhà khoa học. "Tôi chắc chắn là ông ấy có cái tôi riêng chứ. Tuy nhiên, Hilleman trân trọng những giá trị cho cộng đồng. Một khi quyết định được cái nào là tốt hơn thì ông sẽ làm việc mình cần phải làm dù là phải hy sinh thành quả của mình", tiến sĩ Plotkin chia sẻ.

Nhà khoa học Maurice R. Hilleman. Ảnh: Mersk.

Dù dành cả đời cống hiến cho ngành vaccine, luôn đặt tính an toàn và hiệu quả lên hàng đầu, Hilleman phải trải qua quãng thời gian cuối đời nhiều nỗi buồn. Năm 1998, The Lancet, tạp chí y khoa uy tín của Anh đăng tải một báo cáo nói rằng vaccine MMR gây đại dịch tự kỷ. Tác giả bài báo là tiến sĩ Andrew Wakefield cũng bắt đầu trở nên nổi tiếng trên các phương tiện truyền thông. Nhiều phụ huynh không muốn hay chần chừ trong việc tiêm chủng cho con.

Thực tế là sự thành công của vaccine đã khiến mọi người quên mất hậu quả mà sởi, quai bị hay rubella có thể gây ra khủng khiếp đến thế nào hàng thập kỷ trước - thời điểm vaccine chưa có mặt trên thị trường.

Nhiều nghiên cứu độc lập sau đó chứng minh rằng không có mối liên hệ nào giữa vaccine MMR và bệnh tự kỷ. Công trình của tiến sĩ Wakefield không còn đáng tin cậy trong mắt giới nghiên cứu và công chúng. Kết quả là năm 2010, cơ quan y tế Anh đã tước quyền hành nghề y của tác giả bài báo năm nào trong khi The Lancet cũng đã gỡ bài.

Tuy nhiên, tất cả những điều kể trên đã trở nên muộn màng không chỉ với tiến sĩ Hilleman - người khi ấy đã ra đi vì căn bệnh ung thư, mà còn với rất nhiều phụ huynh tin rằng không tiêm vaccine mới là đúng đắn. Chỉ trong năm 2011, một đợt bùng phát sởi ở châu Âu đã khiến 26.000 người mắc bệnh với 9 ca t‌ử von‌g. Điều này xảy ra bởi các sân bay đón rất nhiều du khách trong khi nhiều người có khả năng lây lan rất cao cho những người vẫn chưa tiêm phòng.

Mặc dù vậy, tiến sĩ Hilleman có lẽ sẽ được an ủi phần nào khi trong thế kỷ này, Sáng kiến Sởi và Rubella - chiến dịch toàn cầu ra đời vào năm 2001 đã đưa vaccine MMR đến với một tỷ trẻ em. Nhờ đó, số ca t‌ử von‌g được ngăn chặn từ chỉ riêng bệnh sởi là 9,6 triệu. Giá một liều vaccine cũng chỉ chưa tới 2 USD - trong khả năng tiếp cận của mọi trẻ em trên thế giới. Theo tiến sĩ Stephen L. Cochi, cố vấn tiêm chủng toàn cầu tại CDC Mỹ, sáng kiến "đang trên đà thiết lập ngày mục tiêu" tận diệt căn bệnh này.

Tại Mỹ, chủng vi khuẩn mà Hilleman thu thập được từ con gái vào đêm 1963 đã làm giảm tỷ lệ mắc bệnh quai bị từ 186.000 ca xuống 1.000 ca mỗi năm. Đặc biệt hơn, ông dùng chính tên con gái Jeryl Lynn Hilleman để đặt cho chủng vi khuẩn này.

Nguồn Tin:
Video và Bài nổi bật